Thực trạng đời sống công nhân xuất khẩu Việt Nam ở Malaysia


2008.01.26

Đỗ Hiếu, phóng viên đài RFA

Trong khi người Việt ở các nước ngoài gửi tiền về giúp đỡ thân nhân thì nhiều người ở trong nước lại muốn ra đi bằng cách này hay cách khác. Được xuất khẩu lao động là giấc mơ mà rất nhiều người Việt mong muốn vì nghĩ rằng sẽ làm ăn thoải mái, lại dành dụm được tiền gửi về cho gia đình ở quê nhà, cho nên họ chạy vay để lo được đi lao động.

Tuy nhiên, nơi xứ lạ có những cạm bẫy, lường gạt, trăm ngàn đắng cay thì nợ nần chồng chất khiến bao người tuyệt vọng, điêu đứng. Những điều vừa kể được ông Nguyễn Hưng Đạo, đại diện Uỷ Ban Bảo Vệ Người Lao Động Việt Nam tại Úc kể lại qua cuộc trao đổi với phóng viên Đỗ HIếu của Ban Việt Ngữ, Đài Á Châu Tự Do.

Đỗ Hiếu : Xin ông cho biết về chuyến công tác tại Malaysia vừa qua để tìm hiểu về hiện tình người lao động Việt Nam sang quốc gia đó kiếm ăn.

Ông Nguyễn Hưng Đạo : Thưa quý thính giả của Đài Á Châu Tự Do. Chúng tôi là Nguyễn Hưng Đạo và một người bạn đồng hành cũng trong Uỷ Ban Bảo Vệ Người Lao Động Việt Nam là anh Nguyễn Đình Hùng, chúng tôi nhận công tác của Uỷ Ban Bảo Vệ Người Lao Động Việt Nam qua bên Mã Lai. Chúng tôi ở đó 2 tuần lễ để tìm hiểu hiện tình người lao động Việt Nam, tức là ở Việt Nam đưa qua đó làm lao động đẻ kiếm tiền.

Tôi thấy họ sống không khác gì ngưòi lao nô, tức là họ sống rất là khổ, trong điều kiện lwong bổng, điều kiện sinh hoạt làm việc, cũng như sinh sống hàng ngày, nó quá là thảm. Nếu người nào mà mắt thấy tai nghe có lẽ không thể cầm dựoc nước mắt khi mà nhìn thấy những người thanh niên, thiếu nữ trẻ đó bị đưa qua xứ Mã Lai, không biết tiếng Anh, không biết tiếng Hoa, không biết tiếng Mã, mà tiếp xúc với người chủ làm việc, thì họ bị ức hiếp như thế nào mà không mở đựoc lời. Đó là một hiện tượng rất là thương tâm, thưa anh Đỗ HIếu.

Đỗ HIếu: Ông vừa nhắc tới những hiện tượng thương tâm thì ông có thể cho thính giả của Đài chúng tôi đựoc viết những điều mắt thấy tai nghe tại những địa phương ông đã đi qua.

Ông Nguyễn Hưng Đạo : Tôi thăm hỏi nhiều người ở tại nhiều địa phương trên đất nước Mã Lai mà đa số là những tỉnh và ngay cả thủ đô của nước Mã Lai là Kuala Lumpur, thì tình trạng của họ giống nhau. Giống nhau chỗ nào? Tức là họ một kết luận khi họ qua bên Mã Lai rồi, đó là họ bị gạt.

Gạt là sao? Tức là khi mà họ ở trong nước, với chính sách nhà cầm quyền cộng sản Việt Nam đưa ra là xoá đói giảm nghèo thì họ lập ra rất nhiều công ty môi giới; những công ty môi giới này phần nhỏ là tư nhân, phân lớn là do sở bộ của nhà nước. Ngay cả bộ dội họ cũng có những công ty môi giới đó. Những công ty này vô các làng mạc, đến các nơi nghèo, gia đình đông con, gặp những thanh niên thiếu nữ có sức lực. Họ tìm tới những nhà có miếng vươn nhỏ, một căn nhà nho nhỏ chẳng hạn thì họ đưa chính sách xoá đói giảm nghèo ra, họ hứa hẹn qua Mã Lai, qua Đài Loan, qua Hàn Quốc mà làm chừng 3 năm thì 6 tháng đầu là trả hết nợ, 2 năm rưỡi sau khi hết hợp đồng trở về Việt Nam thì thừa tiền mau xe Honda, trả hết nợ cho cha mẹ.

Điều họ đưa ra rất là hấp dẫn. Cho nên nông dân cảm thấy nếu cứ ở nơi quê nhà nghèo như vậy thì không có tiền và họ chịu đi (xuất khẩu lao động). Nhưng khi qua bên đất nước mới để làm việc như Mã Lai là nơi điển hình mà tôi đã đi qua, thì tất cả những gì đã ký trong hợp đồng, từ lương bổng tới điều kiện làm việc, cho tới chỗ ăn ở thì đều không đúng với hợp đồng. Người công nhan xuất khẩu lao động bị chèn ép đủ thứ. Như tôi vừa trình bày đó, họ không biết tiếng Mã, không biết tiếng Hoa, nên không biết kêu ca vào ai. Đôi khi họ cũng nói rằng họ cũng có đình công biểu tình nhưng mà lập tức những người cầm đầu bị đuổi về nước, những người còn lại bắt buộc phải làm việc.

Tôi có đặt câu hỏi với họ rằng vấn đề lương bổng như thế nào thì họ nói rằng hoàn toàn không giống với hợp đồng hết. Đời sống rất là khó khăn.

Có thể kể với anh Đỗ HIếu mấy mấy chỗ ở thôi đó, thì chúng tôi đên chỗ đó ở một tỉnh (tôi không nêu ra đây làm gì) thì tôi vô chỗ đó là chỗ ở của anh em công nhân đó thì đó là một cái nhà kho mà chủ hãng mướn để dành riêng cho công nhân Việt Nam ở. Chỗ ở đó chừng 50 mét vuông thôi nhưng chứa chấp tới 60 người thanh niên ở trong đó. Các giường chồng lên nhau không khác gì một trại tù. Và chỉ có một nhà tắm và một nhà cầu thôi, thành ra khi họ đi làm về thì họ không có đủ chỗ để tắm, nên họ phải chia phiên cho nhau, thậm chí có người phải 1-2 giờ sáng mới tới phiên mình. Có những trường hợp những cô thiếu nữ vừa kể vừa khóc là chỉ có một nhà tắm và một nhà cầu mà không che chắn gì hết. Đàn ông thì dễ rồi, có cái quần thì cũng tắm được, nhưng phụ nữ thì làm sao, nhưng họ vẫn phải tắm, cả năm sau mới giải quyết việc này.

Nếu mà nói nhiều hơn nữa thì không có thì giờ đủ để chúng ta nói mà cũng không có bút nào tả xiết hết. Phải tận mắt tận tai mới thấy được. Đó là nói về đời sống không thôi đó.

Còn vấn đề lương bổng thì không đúng hợp đồng rồi. Nhưng mà khi qua thì ký hợp đồng là lương ngày, tức bình thường ở Mã Lai là 18.5 ringgit. Rồi khi qua bên đó thì không phải là lương ngày nữa, mà là lương khoán, có nghĩa là làm theo sản phẩm: mình làm sản phẩm nào thì mình ăn tiền sản phẩm đó. Làm hư thì bị trừ tiền. Đôi khi có những hãng hết việc, chỉ làm một buổi thôi, thì ăn một buổi thôi còn nửa buổi anh ở nhà anh không có lương. Nhưng hai ba ngày liên tiếp, một tuần hai tuần liên tiếp mà hãng không có việc và anh tuếp tục ở nhà thì cũng không có lương, trong khi đó anh vẫn phải đóng thuế cho chính phủ Mã Lai một tháng là 100 ringgit.

Cái vấn đề người lao động Mã Lai itư được thế giới biết tới bởi chưa có thông tin nào nói rõ ràng về chuyện này cả cho nên chúng tôi thấy rằng có dịp phải nói lên vấn đề này. Đó là sự tìm hiểu của Uỷ Ban Bảo Vệ Người Lao Động Việt Nam.

Đỗ Hiếu: Thưa ông, với bao nỗi khó khăn như bị chèn ép, lừa gạt, người lao động Việt Nam có đến Sứ Quán Việt Nam tại Kuala Lumpur để xin nơi đó giúp đỡ, bảo vệ không?

Ông Nguyễn Hưng Đạo : Tôi có đặt vấn đề đó và được đa số trả lời như thế này: Bác ơi, chú ơi, chúng cháu khi đi qua bên này đã đặt ký với ngân hàng cái tiền mượn nợ đi Mã Lai từ 17 triệu cho đến 25 triệu, có người 17 triệu, có người 20 triệu, 25 triệu (đồng VN) cho công ty môi giới. Khi qua bên Mã Lai thì tiền nợ họ không có đủ để trả nếu họ sống một cách bình thường, do đó họ phải sống dè sẻn mà trả nợ.

Có nhiều trường hợp 2 năm sau mới trả hết nợ. Tất cả ạnh em đó họ trả lời như thế này: Nếu mà chúng cháu bỏ về thì tiền đâu trả nợ. Mà nếu chúng cháu tự động bỏ về thì chúng cháu phải tự xuất tiền ròi vẫn phải đóng thuế cho chính phủ Mã Lai hết một năm chúng cháu mới đựoc trở về. Trở về trong tình trạng phải mua vé phi cơ, phải đóng thuế, không có tiền trả nợ thì làm sao chúng cháu về?

Như vậy tại sao không nới lên với sứ quán? Ở đây có sứ quán đại diện cho mấy cháu đó. Tai sao cháu không nói? Thì rất nhiều những nhóm nói giống nhau là : Trời ơi, chú ơi, tụi cháu đã lên chớ, tụi cháu đâu phải là không lên đâu. Nhưng mà họ không giải quyết gì hết, thậm chí họ còn có những câu rất nặng. Chúng cháu lên đó thì nhân viên đại diện Sứ Quán CHXHCN Việt Nam họ nói nguyên văn thế này "Chúng mày làm cái gì thế. Đi về". Có nghĩa là không có giải quyết gì hết.

Đỗ Hiếu: Thưa ông, theo ý kiến của cá nhân ông cũng như của Uỷ Ban Bảo Vệ Người Lao Động Việt Nam thì tập thể người Việt hải ngoại có thể làm được gì để giúp đỡ cho những người kém may mắn mà ông vừa mới đề cập tới ?

Ông Nguyễn Hưng Đạo : Chúng tôi có những chuyên gia về vấn đề công đoàn. Uỷ Ban này mới được thành lập hồi tháng 10 năm ngoái (2006)tại Ba Lan, thì chúng tôi có những chuyên viên về công đoàn, nghiên cứu về công đoàn, về luật lao động quốc tế. Những anh em công nhân Việt Nam khi qua làm các công ty bên Mã Lai thì phần lớn đó là các công ty liên quốc gia, họ cho những nhà thầu Mã Lai thầu lại. Luật lao động quốc gia đã đành rồi nhưng còn luật lao động quốc tế nữa.

Thành ra trong phạm vi của Uỷ Ban Bảo Vệ chúng tôi biết theo các diều luật chúng tôi nghiên cứu để làm sao cho chính quyền Mã Lai chú ý tới chuyện các hãng xưởng, các công ty đã đối xử với các em không đúng dể làm sao có phần nào bênh vực các em. Còn riêng với cộng đồng người Việt hải ngoại thì tôi nghĩ rằng chúng ta hãy chú ý tới họ. Cái vấn đề bênh vực của Uỷ Ban Bảo Vệ đưa ra cũng không thể nào mạnh bằng các cộng đồng ở các nơi bên Úc, bên Mỹ, bên Châu Âu, v.v. thì tiếng nói chúng ta có mạnh thì bênh vực cho các em đó.

Đây là thành phần họ rất là bất mãn, họ rất là phẫn uất không thua gì nhóm đồng bào dân oan khiếu kiện ở Việt Nam. Ở bên đó họ hoàn toàn không biết tin tức gì hết, tức họ không lên Net được, họ không đọc báo được, họ không nghe radio được, cho nên tình trạng đó chúng ta thấy đâu có khác gì ở tù đâu.

Đỗ Hiếu: Chúng tôi xin cảm ơn ông Nguyễn Hưng Đạo từ Liên Bang Úc Châu đã dành cho Đài RFA chúng tôi cuộc trao đổi vừa rồi.

Nhận xét

Bạn có thể đưa ý kiến của mình vào khung phía dưới. Ý kiến của Bạn sẽ được xem xét trước khi đưa lên trang web, phù hợp với Nguyên tắc sử dụng của RFA. Ý kiến của Bạn sẽ không xuất hiện ngay lập tức. RFA không chịu trách nhiệm về nội dung các ý kiến. Hãy vui lòng tôn trọng các quan điểm khác biệt cũng như căn cứ vào các dữ kiện của vấn đề.